Năm 2016, tôi đến Huế. Đấy là lần đầu tiên tôi đến thăm lăng Gia Long. Tôi đã đi Huế rất nhiều, đã đi lăng Tự Đức, Khải Định vài lần. Nhưng lăng Gia Long hầu như tôi không hề đặt chân đến, chỉ vì… tôi không biết. Ngài được mặc định là nhân vật phản diện trong sách giáo khoa, trong những tài liệu chính thống, và vì thế, lăng của ngài cũng bị đưa vào quên lãng.
Dịp đó là lần đầu tiên tôi ra Huế chơi. Trong vé tham quan các điểm di tích lăng tẩm, thì chỉ có lăng Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định và thăm Đại Nội, không có lăng Gia Long. Chiều đó, tôi đi thăm lăng Minh Mạng. Nhưng không hiểu sao tôi chạy lố đến một cây cầu mới xây và có biển hiệu chỉ dẫn “Lăng Gia Long”.
Vừa lạc, vừa tìm mãi chưa ra lăng Minh Mạng mà thấy biển chỉ lăng Gia Long. Thế là phi xe vào hướng chỉ. Chạy mãi chạy mãi. Đi nhầm lối rẽ vài lần (không hiểu sao tỉnh Thừa Thiên Huế tiết kiệm bảng hiệu thế), phải hỏi 2, 3 người dân, cuối cùng mới tới được lăng Gia Long. Lăng vua rất vắng người.
Lúc tới chỉ có tôi thăm. Khác những lăng kia, lăng Gia Long chưa khai thác du lịch nên không bán vé. Tôi bỏ ít tiền công đức. Tôi thắp nhang cho ngài trong đền và đặt một ít tiền quyên góp. Nhờ hành động kính cẩn này mà chú bảo vệ sau đó đã mở lăng cho tôi.
Bởi vì chưa khai thác du lịch nên không khí rất trầm mặc, lăng phủ bụi lịch sử, uy nghi và trầm tĩnh. Khác hẳn các điểm lăng khác do khách du lịch quá đông nên nét lịch sử bị phai nhạt rất nhiều.
Tại đấy, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện tình của vua Gia Long.
Bức ảnh này, chính là chuyện tình đó.
Mộ vua Gia Long bên trái, và mộ Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu bên phải.
Vua Gia Long là hoàng đế đã táng mộ mình và mộ vợ ở cạnh nhau. Khi Thừa Thiên Cao Hoàng hậu ra đi vào năm 1814, nhà vua rất đau đớn. Ông đã đích thân chỉ huy công trình xây dựng lăng tẩm này, và bị một tai nạn suýt chết. 6 năm xây dựng, để năm 1820 khi ngài nằm xuống. Mộ của ngài và mộ của vợ được ở cạnh nhau.
Thừa Thiên Cao Hoàng Hậu có tên húy là Lan. Tống Phúc Lan là tên bà. Bà sinh năm 1762, và bằng tuổi Gia Long. Đắng cay ngọt bùi mà Gia Long phải gánh từ thuở lưu lạc, bà cũng gánh cùng. Bao nhiêu lần Tây Sơn truy sát khiến Gia Long chạy đôn chạy đáo, bà cũng chạy đông chạy tây. Bao nhiêu lần Gia Long lưu lạc, bà vẫn chịu khó phụng dưỡng mẹ vua, bảo vệ gia thất suốt quãng thời gian phiêu bạt, săn sóc đến từng bữa ăn của người mẹ già (nghe như một chuyện về mẫu người phụ nữ Việt Nam phải không).
Giai đoạn đen tối. Nguyễn Ánh đã sang cầu viện quân Xiêm La, đi cùng việc cậy nhờ Bá Đa Lộc đem Hoàng tử Cảnh sang Pháp xin thêm ngoại viện. Trước khi ra đi, nhà vua đã lấy một nén vàng tốt, chặt ra làm hai, trao cho bà một nửa, còn mình thì giữ một nửa, và nói: “Con ta đi rồi và ta cũng sẽ đi đây. Ngày gặp lại cũng chẳng biết là vào lúc nào và ở đâu, bởi vậy, Phi hãy lấy nửa nén vàng tốt này làm của tin”.
Bà đã đợi ông từ Xiêm La trở về. Khi vua chiếm được Gia Định, rước bà về từ đảo Phú Quốc. Từ đó về sau, bà quyết không rời xa ông nữa. Trên chiến trường tên bay đạn lạc, mưa máu và bẩn thỉu. Bà vẫn ra chiến trường cùng với vua, động viên, tâm sự. Hình ảnh Gia Long – Thừa Thiên sau này được ví như nàng Ngu Cơ luôn ở bên Hạng Vũ đời Hán vậy.
Giữa bôn ba ấy, bà không chỉ là cột trụ tinh thần cho Gia Long. Mà còn tự tay dệt nhung phục cho quân sĩ. Trong một trận đánh, quân Gia Định thất thế. Chính bà, cầm trống thúc quân khiến tướng sĩ phấn chấn mà đánh bại địch. Năm 1802, vua Gia Long thống nhất đất nước. Năm 1806, bà được phong tước hoàng hậu. Năm ấy, bà đã 44 tuổi.
Gần nửa đời người bôn ba, vào sinh ra tử với người đàn ông của đời mình. Đến lúc đó, bà mới được an ủi. Có một câu chuyện nhỏ. Hôm đó, vua hỏi bà thỏi vàng năm nào. Bà đem vàng ra trình lên. Gia Long vô cùng cảm động, cầm lấy nửa thỏi vàng và bảo rằng: “Vàng này mà còn giữ được, đó thật là ân trời đã giúp cho trong lúc gian nan, chẳng nên quên lãng. Vậy phải để dành về sau cho con cháu biết”. Thỏi vàng ấy, sau này được Minh Mạng cho thờ ở Điện Phụng Tiên.
8 năm hưởng vinh hoa ngắn ngủi, Thừa Thiên hoàng hậu ra đi. Vua khóc thương vô cùng. Tự tay xây mộ, và dặn Minh Mạng khi ta băng hà thì táng ở bên cạnh. Hai nấm mồ ở cạnh nhau, không cô độc, hai con người đã từng chia ngọt sẻ bùi khi còn sống và bây giờ nằm cạnh nhau để đi vào giấc ngủ nghìn thu, vẫn chia ngọt sẻ bùi cùng nhau. Hậu thế đời sau đánh giá lịch sử cực đoan đã chửi ông, nhưng tôi tin, khi có bà ở cạnh như vậy, thì ông sao có thể cô đơn?
Bao nhiêu đắng cay, bao nhiêu thất bại, bao nhiêu tủi nhục của nhà vua, vẫn không khiến bà ngã lòng, vẫn ở bên ông. Còn ông, khi vinh hoa đầy mình, khi thiên hạ trong tay, vẫn muốn bà ở cạnh mình.
Khi bạn rời khỏi lăng Gia Long, bạn sẽ gặp một con đường lãng mạn đẹp vô cùng. Bởi Lăng Gia Long là sự hòa quyện của u tịch lịch sử và thiên nhiên hoang sơ Thiên Thọ Sơn. Và xa xa con đường ấy, chính là lăng mẹ vua Minh Mạng. Vua Minh Mạng không phải là con chính thất. Mẹ ông không được chôn cạnh Gia Long. Nhưng vì lòng hiếu thảo, ông để mẹ mình không ở quá xa cha mình.
Chuyện tình ấy, không chỉ là một chuyện tình đẹp. Mà còn là bài học đạo đức cho đời sau.
—- Tác Giả DUNG PHAN—
Thêm ít thông tin từ Tạp Chí Kiến Trúc về Lăng Vua Gia Long
Mỗi lăng mộ triều Nguyễn đều có những đỉnh cao, những giá trị nghệ thuật vô cùng độc đáo. Thiên Thọ Lăng tức lăng Gia Long được đánh giá cao với việc bảo tồn và phát huy những phần tinh túy nhất của văn hóa Việt. Nằm ở một quần sơn trùng điệp với 42 ngọn đồi núi lớn nhỏ, được bao bọc bởi rừng thông và những hàng cây sầu đông ở lối vào, với một cảnh trí tuyệt đẹp như vậy, lăng mộ Gia Long là một tượng đài tình yêu bất tử. Phong cách nghệ thuật tối giản với triết lý “less is more” chưa thể nói lên hết phần ý niệm cốt lõi của cách thức tổ chức không gian nơi này. Với cách xử lý các yếu tố trang sức trên bề mặt các công trình kiến trúc, trên các đồ tự khí, càng đi vào trung tâm ta càng đạt đến cảnh giới của sự trống rỗng. Có lẽ cái ý “Đại tượng vô hình” mới là ý tưởng chính dẫn dắt đức vua thiết kế cho nơi yên nghỉ vĩnh hằng của một mối tình đã trải qua rất nhiều thăng trầm. Dấu son độc đáo trong quần thể lăng mộ độc đáo của Thiên Thọ Lăng chính là hai chiếc sập đá đặt trước ngôi mộ mang hình dáng của những chiếc lều.
Du khách sau khi vượt đèo lội suối, băng rừng, xuyên qua hàng thông và cây sầu đông cao vút, qua đường thần đạo với hai hàng voi ngựa, bước thêm lên bẩy cấp ở sân tế là Bửu Thành ở đỉnh đồi. Bên trong Bửu Thành có hai ngôi mộ đá, dạng thạch thất, được song táng theo quan niệm “Càn Khôn hiệp đức” – Một hình ảnh đẹp của hạnh phúc và thủy chung với hai chiếc sập đá đặt mỗi bên. Sập đá được làm theo kích thước như thật. Sập đá đức vua lớn hơn của hoàng hậu một chút. Viết về lăng Gia Long, nhà nghiên cứu Huế – Phan Thuận An nhận định: “Hai nấm mộ bằng đá của đế và hậu nằm song song, chỉ cách nhau một gang tay, có cùng kích cỡ, bên trên đều có hai mái lợp bằng đá Thanh mà thời gian đã nhuộm màu than đá. Không một nét chạm trổ, chẳng một màu sơn thếp, tất cả chỉ là những tấm đá phẳng lì, trơ trụi, tạo ra giữa chốn hoang liêu này một không khí tịch mịch và uy nghiêm. Hai ngôi mộ nằm sát bên nhau biểu hiện tình cảm cao đẹp thủy chung của đế và hậu đã từng vào sinh ra tử với nhau trong suốt mấy chục năm chinh chiến. Đấy là giá trị độc đáo của lăng Gia Long, chưa hề thấy ở lăng vua nào trước đó”2. Nếu như mỹ thuật Huế, đặc biệt là phần lăng tẩm thể hiện sự cầu kỳ, tinh tế đến hoa mỹ thì tới đây, chung ta dường như bắt gặp một phong cách thẩm mỹ khác hẳn. Sự tinh tế trong kìm nén và tiết chế. Quần thể kiến trúc này cho chúng ta thấy sự hiện hữu những cảnh giới trong tâm tưởng – Khi khách hành hương quay về nhà mới thực sự là điều quan trọng.
Hai chiếc sập đá được chạm trổ tỉ mỉ nhưng kiểu cách có phần bình dân theo kiểu thức của đồ gỗ đời Minh. Theo cách gọi chuyên môn là lương tháp. Trong phần viết trước, tôi có lưu ý nguồn gốc của loại vật dụng này đến từ Tây Vực. Vốn là vật dụng của các bậc cao tăng, gọi là La Hán sàng. Hiện tượng thiêng hóa chiếc sập với các đồ án trang trí có nguồn gốc từ Ấn Độ cho thấy rõ nét hơn sự chuyển biến từ La Hán sàng trong các ngôi chùa thành sập thờ trong không gian tín ngưỡng của người Việt. Chùa Quỳnh Lâm còn bức tượng Đầu đà Hoàng giác Điều ngự Trần Nhân Tông nằm trên sập nhập niết bàn.
Mỗi lăng mộ triều Nguyễn đều hàm chứa những nét văn hóa đặc trưng, những giá trị nghệ thuật vô cùng độc đáo. Gần như tương phản nhất với lăng Khải Định, lăng Gia Long bảo tồn và phát huy những phần tinh túy nhất của tâm hồn người Việt. Khoảng trống trên hai chiếc sập lắng đọng bao tình người và có cả một chiều sâu triết học đáng để chúng ta tiếp tục suy ngẫm. Đôi sập đá ở Thiên Thọ Lăng xứng đáng là đài tưởng niệm cho mối tình bất tử, độc đáo vô song trong nghệ thuật tưởng niệm của người Việt. Hoàng hậu xét về thức bậc đương nhiên không sánh với vua, nhưng Gia Long coi bà như người tri kỷ6. Thác là thể phách, hồn là tinh anh, vào những ngày trăng thanh gió mát, giữa mênh mông đất trời, hoàng đế Gia Long và người vợ tào khang sẽ đi ra từ ngôi thạch thất, ngồi xuống bên hai chiếc sập đá, ôn lại thủa hàn vi hay cùng đàm đạo văn chương thế sự…